Nghị định mới của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2009/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2009.


Đối tượng áp dụng của Nghị định là NHTM Nhà nước; NHTM cổ phần; NHTM liên doanh; NHTM 100% vốn nước ngoài và tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của ngân hàng.

Trong quy định về thành lập ngân hàng của Nghị định, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, đồng thời có quyền từ chối cấp Giấy phép nếu tổ chức, cá nhân xin cấp phép không đáp ứng được các quy định hiện hành.

Nghị định quy định rõ, cơ cấu tổ chức quản lý của ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ bao gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc.

Cơ cấu tổ chức quản lý của ngân hàng thương mại Nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, ngân hàng thương mại liên doanh, ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài bao gồm Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc.

Hội đồng quản trị phải có tối thiểu 3 thành viên và không quá 11 thành viên, số lượng cụ thể do Điều lệ ngân hàng quy định. Tối thiểu 1/2 tổng số thành viên Hội đồng quản trị phải là người không điều hành và thành viên độc lập, trong đó có tối thiểu 2 thành viên độc lập. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể là thành viên độc lập.

Hội đồng quản trị có nhiệm kỳ là 5 năm, đồng thời phải thành lập các Ủy ban để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trong đó có tối thiểu 2 ủy ban là Ủy ban về vấn đề quản lý rủi ro và Ủy ban về vấn đề nhân sự.

Trường hợp ngân hàng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, Ban Kiểm soát đặc biệt do NHNN thành lập có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Trưởng ban và các thành viên Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc nếu xét thấy cần thiết.

Nghị định này cũng đưa ra các quy định chi tiết về NHTM. Theo đó, đối với NHTM cổ phần, ngân hàng có thể có cổ phần ưu đãi (người sở hữu gọi là cổ đông ưu đãi). Tổng giá trị mệnh giá của cổ phần ưu đãi cổ tức tối đa bằng 20% vốn điều lệ của ngân hàng. NHTM cổ phần phải có tối thiểu 100 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa. Trong đó, cổ đông cá nhân được sở hữu tối đa 10% vốn điều lệ; cổ đông là tổ chức được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ và cổ đông cùng những người có liên quan của cổ đông đó được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ của 1 ngân hàng. Việc tổ chức quản lý của NHTM cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ được thực hiện theo các quy định áp dụng đối với NHTM cổ phần.

Đối với NHTM Nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ (NHTM 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH một thành viên cũng được áp dụng theo quy định này), chủ sở hữu được quyết định mức vốn điều lệ ban đầu và việc thay đổi vốn điều lệ của ngân hàng; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của ngân hàng; quyết định mức thù lao, thưởng và các lợi ích khác đối với các thành viên của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát... nhưng chỉ được rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác khi được NHNN đồng ý cũng như không được rút lợi nhuận khi ngân hàng không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.

Đối với NHTM liên doanh (NHTM 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng được áp dụng theo quy định này), Nghị định cũng quy định quyền của thành viên góp vốn có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin, báo cáo tài chính hàng năm; được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp; được chia giá trị tài sản còn lại của ngân hàng tương ứng với phần vốn góp khi ngân hàng giải thể hoặc phá sản; được ưu tiên góp thêm vốn khi ngân hàng tăng vốn điều lệ... nhưng thành viên góp vốn không được rút vốn đã góp ra khỏi ngân hàng dưới mọi hình thức, trừ trường hợp chuyển nhượng, mua lại vốn góp theo quy định.

Cũng tại Nghị định này quy định cụ thể về các nghiệp vụ được phép hoạt động và những quy trình, chính sách cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM. Ngoài ra, Nghị định có các quy định về tài chính, báo cáo, thông tin, bảo mật và kiểm toán độc lập trong đó nêu rõ trong thời hạn 120 ngày, kể từ khi kết thúc năm tài chính, ngân hàng phải công khai các báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật.

Xem toàn văn Nghị định số 59/2009/NĐ-CP  tại đây.